HOÀNG CỰC KINH THẾ

HOÀNG CỰC KINH THẾ

13 tháng 03 năm 2025

Môn Hoàng Cực Kinh Thế dựa vào nguyên tắc hình thành Tiên thiên bát quái của Phục Hy, theo nguyên tắc Thái cực sinh Lưỡng nghi, Lưỡng nghi sinh Tứ tượng, Tứ tượng sinh Bát quái, Bát quái sinh 64 quẻ => quá trình này được hình thành bởi từ một khí Thái cực thăng lên thì làm khí dương, giáng xuống thì làm khí âm, tuần hoàn có đầu cuối mà tạo thành chu kỳ. Trong khi thăng giáng, các tượng của quẻ tự nhiên hình thành.

Số trời quay từ phải qua trái (nghịch chiều kim đồng hồ), những Số đi qua là thuận, còn số chưa đi qua là nghịch => điều này có nghĩa là những gì chúng ta đã trải qua “quá khứ” đều nằm ở phía sau lưng (bên tay trái), còn cái chưa phát sinh đang nằm ở phía tay phải (xem đồ hình) [ví dụ giả sử ta đang ở hội Thìn thì cái chưa phát sinh đang ở hội Tị là phía tay trái của chúng ta]. Nếu tiếp tục tính toán về phía tay trái tức là “nghịch số tri lai” (đi ngược số để biết cái sắp tới). Cho nên nói rằng “Dịch là nghịch số”.
HCKT mô phỏng lại quá trình hình thành các quẻ, nhìn đồ hình ta có thể thấy:
Tiết Đông Chí hình thành tại hào sơ của quẻ Chấn tiên thiên (quẻ Phục số 1)
Tiết Xuân Phân hình thành tại hào sơ của quẻ Đoài tiên thiên (quẻ Lâm số 16)
Tiết Hạ Chí hình thành tại hào sơ của quẻ Tốn tiên thiên (quẻ Cấu số 31)
Tiết Thu phân hình thành tại hào sơ quẻ Cấn tiên thiên (quẻ Độn số 46)

Như thế đồ hình của HCKT gói gọn trong 60 quẻ quản 12 hội, biến hoá các hào mà hình thành 360 quẻ quản vận – trong đó mô tả hai khí dương thăng âm giáng, các quy tắc về số, lịch pháp, thiên văn, địa lý bao gồm trọn ở bên trong.

Ta có thể thấy đồ hình chia làm hai nửa: một nửa Dương từ hội Tý đến hội Tị, nửa Âm từ hội Ngọ đến hội Hợi – hoàn toàn tuân thủ theo cấu trúc thời gian của một năm thời tiết. Nếu ta lấy 129,600 năm và ghép các số, can chi của Hoa Giáp tuần tự cho các đơn vị: Vận, Thế, Năm, Tháng, Ngày, Giờ thì có thể biết được các chu kỳ lớn nhỏ ở bên trong đồ.
Bộ HCKT tuân thủ theo nguyên tắc của Tiên Thiên Dịch mà hình thành, muốn xem được/sử dụng được thì phải nắm được các nguyên lý của Dịch, thứ tự của thiên văn, địa lý, lịch pháp. Hơn nữa, trong sách này Thiệu Khang Tiết phân bổ đồ hình 8 quái Tiên Thiên để mô tả trời và đất:
Phần dương: chứa các quẻ Càn 1, Đoài 2, Ly 3, Chấn 4 lần lượt làm tượng cho mặt trời, mặt trăng, tinh tú và các sao không phát sáng; trên phương diện thời gian thì lấy Nguyên Hội Vận Thế là các đơn vị thời gian lâu dài để tính toán cho chu kỳ vận hành của các tinh thể.
Phần âm: chứa các quẻ Tốn 5, Khảm 6, Cấn 7, Khôn 8 lần lượt làm tượng cho đá, đất, lửa, nước để ứng đối với phần dương; trên phương diện thời gian thì lấy Năm, Tháng, Ngày, Giờ là các đơn vị ngắn hạn hơn để tính toán cho các biến đổi của tự nhiên trên mặt đất.

Sau đó, trong môn HCKT còn phân biệt ra các giống loài, sự vật, sự việc, tính chất, âm thanh…vv… để giải thích sự vận hành của tự nhiên dựa trên dịch lý. Trong sách này phát kiến rất nhiều các nguyên tắc Dịch Lý, đạo tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ của Nho Giáo – tất thảy đều dựa trên chữ Lý của Kinh Dịch (thời và vị, trung và chính) để mà suy luận.

Do Thiệu Khang Tiết là nhà Nho cự phách, ông dùng Dịch Lý – hết thảy phân ra làm 4 tượng mà giải thích:
về chính trị thì phân việc cai trị ra làm 4 mức độ là Hoàng Đế Vương Bá (mỗi mức độ ứng với một thời kỳ Xuân Hạ Thu Đông);
về thứ hạng dân chúng thì phân ra làm 4 loại là: Sỹ – Nông – Công – Thương;
về cấu tạo của tự nhiên thì phân 4 loại là: Thuỷ, Hoả, Thổ, Thạch;
về thời tiết thì phân ra làm 4 loại là: Mưa, Gió, Sương, Sấm
về sinh vật thì chia làm 4 loại: phi (bay), tẩu (chạy), thảo (cỏ), mộc (cây)
về việc giáo dục con người thì chia ra làm 4 đề mục: Kinh Dịch, Kinh Thư (Nho), Kinh Thi, sách Xuân Thu.
Về cách cư sử thì chia ra làm 4 lựa chọn là: Đạo, Đức, Công, Lực
Về thời gian thì chia làm Nguyên, Hội, Vận, Thế để tính các chu kỳ lớn; chu kỳ nhỏ thì dùng năm, tháng, ngày, giờ để tính toán.
Phân loại tính chất thì phân ra làm: Tính, Tình, Hình, Thể – chia ra làm thể và làm dụng, bao quát tất cả.

Dùng phần dương của tiên thiên bát quái phân ra làm Thái dương, Thái âm, Thiếu dương, Thiếu âm; dùng phần âm của tiên thiên bát quái phân ra làm Thái nhu, Thái cương, Thiếu nhu, Thiếu cương. Một bên là trời, một bên là đất – hết thảy các vận động của tự nhiên đều dùng Dịch lý mà giải thích, bao gồm hết quá khứ và vị lai trong một đồ hình.

Việc suy xét theo Dịch lý cũng đi từ đơn giản đến phức tạp – ở mức độ tổng quát thì lấy quẻ Cấn là giai đoạn dương mới sinh, đến Càn là dương lớn mạnh cực điểm mà một khí âm sinh, đến Tốn là vào giai đoạn âm sinh, đến Khôn là giai đoạn âm lớn mạnh cực điểm mà một khí dương sinh. Lại phân ra làm 12 hội (tương tự như 12 tháng trong mỗi năm) – chia làm thời gian mở và thời gian đóng, mô phỏng 4 chu kỳ Thành Thịnh Suy Huỷ.
Trong quá trình phát triển của hai khí âm dương 360 vận hình thành, biến hoá thành 4320 thế; dùng quẻ dịch, hào từ và các nguyên tắc về thời vị, đạo lý tốt xấu để suy luận, chi ly tính toán. Thiệu Khang Tiết còn lấy các biến cố lịch sử trong quá khứ – từ thời Tam Hoàng, Ngũ Đế, Tam Vương, Ngũ Bá – lần lượt trình bày giải thích sự cát hung, biến chuyển trong lịch sử theo biến đổi của quẻ, của vận, thế… theo thời gian.
Trong đó, về phần Số của sách này thì dùng số bản nguyên của Hà Đồ là 9 số tự nhiên (1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9) – phân ra làm số Sinh và số Thành tức là gồm cả số 10; lại dùng phép bói cỏ Thi để biểu diễn số Tiểu Diễn, dùng số Sách của Hà Đồ để biểu diễn số Đại Diễn (tức là biến hoá số của Hà Đồ đến cùng cực).

Một bộ Hoàng Cực Kinh Thế của Thiệu Khang Tiết có bao gồm rất nhiều thông tin và liên quan tới chính trị, lịch sử, thiên văn, lịch pháp, xã hội, văn hoá…vv… rất nhiều các lĩnh vực. Sách xưa để lại nhiều lỗi (hoặc cố ý chép lỗi), dấu diếm nhiều huyền cơ. Tuy trong sách không đề ra các pháp môn sử dụng, nhưng nếu lĩnh hội được thì diệu dụng vô cùng, dùng đâu cũng có thể.
Chúc chư đồng đạo may mắn và tận hưởng quá trình tìm tòi!

Chia sẻ bài viết này