
MỤC TIÊU CHÍNH CỦA PHONG THUỶ LÀ “THỪA SINH KHÍ”
Táng giả, thừa sinh khí dã
—
Nguyên Văn:
Sinh khí tức nhất nguyên vận hành chi khí, tại thiên tắc chu lưu lục hư, tại địa tắc phát sinh vạn vật. Thiên vô thử tắc khí vộ dĩ tư, địa vô thử tắc hình vô dĩ tải, cố bàng bạc hồ đại hoá, quán thông hồ phẩm hối, vô xứ vô chi nhi vô thời bất vật dã. Đào Khản viết: “Thiên thiên địa nhi trường tồn, hậu thiên địa nhi cố hữu. Cái diệc chi thử vân nhĩ. Thả phu sinh khí tàng vu địa trung, nhân bất khả kiến, duy tuần địa chi lý dĩ cầu chi, nhiên hậu năng tri kỳ sở tại. Táng giả năng tri kỳ sở tại, cánh khô cốt đắc dĩ thừa chi, tác địa lý chi năng sự tất hỹ.
—
Thích Nghĩa
Sinh khí là một khí Thái cực nhất nguyên, trên trời thì tuần hoàn tại nơi lục như, tại trong đất thì phát sinh vạn vật. Trên trời nếu không có khí này thì không có năm tháng vận hành, ở trong đất mà không có khí này thì hình của đất không tải nổi vật. Do đó khí này bàng bạc khắp nơi mà có biến hoá lớn, quán thông các loại phẩm chất, không có chỗ nào không có nó, không có thời nào không vận hành.
Đào Khản (phong thuỷ gia đời Đông Tấn, trong tác phẩm Tróc mạch phú) nói rằng: “trước khi trời đất sinh ra thì đã có khí này, sau khi trời đất sinh ra thì khí này vẫn luôn tồn tại. Sinh khí vẫn luôn tồn tại trong đất, người ta không nhìn thấy được nó, chỉ có thể dùng các pháp quyết địa lý để cầu tìm nó mà thôi, rồi sau đó mới chiêm nghiệm được sự tồn tại của sinh khí. Người dùng phép táng có khả năng biết được chỗ của sinh khí, do đó giúp cho xương khô cưỡi lên sinh khí (để tạo phúc ấm cho con cháu), đấy là công việc và ý nghĩa của nghề địa lý.
Đoạn này trích trong Táng Thư, nói về sinh mệnh lực vận hành trong tự nhiên, vạn vật đều cần có sinh mệnh lực để tồn tại, địa lý chính là pháp môn nghiên cứu trực tiếp về Sinh mệnh lực, nó là cái đích đến cuối cùng – người thời nay học phong thuỷ địa lý ưa thích màu mè hoa lá, đao to búa lớn nhưng lại không ngộ ra được điểm cốt yếu này.
Ngũ khí hành hồ địa trung, phát nhi hành hồ vạn vật.
—
NGUYÊN VĂN
Ngũ khí tức “Ngũ hành chi khí”, nãi sinh khí chi biệt danh dã. Phù nhất khí phân vi âm dương, chiết nhi vi Ngũ hành, tuy vận vu thiên, thực xuất vu địa. Hành tắc vạn vật phát sinh, tụ tắc sơn xuyên dung kết. Dung kết giả, tức nhị ngũ tinh diệu hợp chi ngưng dã.
—
GIẢI THÍCH
Câu nói “năm khí vận động trong đất, phát ra thì khiến vạn vật sinh sôi” – đề cập tới “sinh khí”, sinh khí này vận động dưới dạng “lực ngũ hành”, thực ra là một khí Thái cực, nhẹ nổi lên là dương, nặng chìm xuống là âm, trong quá trình sinh hoá biến động thì gọi là ngũ hành; khí này vận hành theo trời, nhưng thực xuất ra từ đất. Khi vận hành thì vạn vật phát sinh, khi tụ lại thì dung kết thành núi sông. Dung kết ở đây nghĩa là tinh tuý của hai khí âm dương (nhị ngũ) hoà hợp mà ngưng thành.
Khí “ngũ hành” tuy 5 thực ra chỉ là 2 khí âm dương thăng giáng, tuy nói hai khí âm dương thăng giáng, nhưng chẳng qua là 1 khí thái cực bản nguyên
Trái đất vận động trong hệ mặt trời, hệ mặt trời vận động trong ngân hà, ngân hà vận động trong hệ thiên hà, hệ thiên hà vận động trong hệ siêu thiên hà
các lực tương tác vô cùng rối rắm nhưng có quy luật, gọi là Ngũ HÀnh
Người xưa nghiên cứu thiên văn địa lý, lập ra các quy tắc căn bản của sự biến đổi gọi là “Dịch”; Hà Đồ chính là số hoá căn bản của Vũ Trụ, Hà đồ cũng chính là bản đồ của sông Ngân Hà; Lạc thư, là nguyên tắc căn bản phối khí Ngũ Hành khi tương tác trong lòng trái đất
Nội hàm căn bản từ hữu hình đến vô hình:
* Hữu hình: là hình dáng (Hình), màu sắc, âm thanh (Thanh Sắc), Vị, Xúc, Giác
* Vô hình: cát hung, thịnh suy, các khái niệm như tụ tán, tiêu trưởng…
Học về địa lý, tức là thông qua các quy tắc về Ngũ Hành Âm Dương, hay Dịch Lý để suy đoán Hình Khí, dẫn đến hiệu ứng cát hung – mục tiêu là đón lấy sự sống hay sinh khí. Kinh viết “thừa sinh khí” là thế.
Học trình độ tính từ hữu chiêu đến vô chiêu, các pháp quyết từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp mục đích cuối cùng chỉ là “thừa sinh khí” mà thôi; hễ thừa được sinh khí là đúng, hễ thừa không được sinh khí là sai – pháp quyết nào cũng thế cả.
Lại nói: Khí ngũ hành vận hoá trong đất, là hệ quả của sự tương tác giữa Trái Đất và các Tinh Thể thiên văn như Ngũ tinh, mặt trời và mặt trăng.
Khí Ngũ hành khi vận hoá trong đất, thể hiện bằng hình thù, màu sắc, mùi vị, âm thanh, xúc giác – đó là những gì Ngũ quan của người phàm nhìn thấy; đối với Thiên nhân (người mở được giác quan khác như Thiên nhãn”, khí ngũ hành có thể là hào quang hay tần số rung động..vv.. tuỳ thuộc vào trình độ tiến hoá của mỗi người.
Trên căn cơ căn bản nhất, con người học thuật Kham Dư, Địa Lý chủ yếu dựa vào HÌNH để suy đoán KHÍ là chính. việc học phong thuỷ trải dài từ HÌNH – KHÍ – LÝ – SỐ – THỜI – KHÔNG; với mục đích nhìn nhận rõ được biến hoá của Ngũ Hành, nhờ đó khiến con người và địa khí, thiên khí hoà hợp làm một (Tam tài thiên địa nhân hợp nhất), đạt được mục đích phú quý đinh thọ.
Ví dụ: xét hành Hoả:
* Hình: hình của hoả là Nhọn, ưa thích đoan trang nghiêm minh, phù trợ chủ nhân
* Khí: tính của hoả thì bốc lên, cho nên gọi là Viêm Thượng, tính sáng, lễ, quang minh
* Lý tính: hoả tính động, thăng lên, dương cực mà trong có ẩn dấu 1 âm (quẻ Ly khuyết giữa)
* Thời: hoả ứng mùa Hạ, các giờ Tị Ngọ Mùi
* Không: là phương Nam
Từ các yếu tố nói trên, ta có thể thấy rằng đón được hành hoả sinh vượng bổ trợ cho ta, thuận sinh đó là cát, hữu tình như thế là cát => ứng với văn chương phú quý, lễ nghĩa có pháp độ; ứng nhanh mạnh quyết liệt, phát nhanh. Nếu xung phá vô tình, ứng bại tuyệt nhanh chóng, hoả tai, tai nạn, bệnh dịch đến như lửa đốt.
Ví dụ như thế để thấy được pháp quyết của kham dư không khác pháp quyết dịch lý